Chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển nông nghiệp hiện đại. (Ảnh minh họa)Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang làm thay đổi sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, nông nghiệp Việt Nam đứng trước yêu cầu cấp thiết phải chuyển đổi mạnh mẽ để thích ứng và phát triển bền vững.
Không chỉ là xu thế tất yếu, chuyển đổi số trong nông nghiệp đang trở thành chìa khóa mở ra cơ hội nâng cao năng suất, chất lượng, giảm chi phí và tăng sức cạnh tranh cho nông sản Việt trên thị trường quốc tế.
Chia sẻ về vấn đề này, tại Diễn đàn “Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Nắm bắt cơ hội, thích ứng tương lai”, TS. Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết: Chuyển đổi xanh và chuyển đổi số đang là hai xu thế tất yếu, gắn liền với yêu cầu tăng trưởng nhanh, bền vững của nền kinh tế. Trong bối cảnh nông nghiệp Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng cao, giá trị sản xuất đạt trên 400 tỷ USD, việc định hướng phát triển nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại, ứng dụng công nghệ cao theo hướng “xanh” và “số” không chỉ là lựa chọn mà là yêu cầu bắt buộc.
Theo Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, 2 trụ cột quan trọng của nền nông nghiệp hiện đại chính là liên kết chuỗi giá trị và xây dựng hệ sinh thái số. Đây là nền tảng để nâng cao năng lực cạnh tranh, minh bạch hóa quy trình sản xuất – tiêu thụ, và tạo dựng niềm tin trên thị trường trong nước và quốc tế.
Về thực trạng chuyển đổi số và liên kết chuỗi giá trị trong nông nghiệp, Việt Nam là quốc gia có nền nông nghiệp phát triển mạnh, được quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi số trong nông nghiệp, đặc biệt trong khu vực kinh tế tập thể và Hợp tác xã (HTX), vẫn còn chậm so với nhiều quốc gia trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan hay các nước EU.
Còn ở thực trạng liên kết trong nông nghiệp, theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hiện nay cả nước có khoảng 7.000 mô hình liên kết trong lĩnh vực nông nghiệp; trong đó có khoảng 3.000 mô hình theo Nghị định 98, thu hút 4.000 HTXvà khoảng 600.000 hộ nông dân tham gia.
Một số mô hình liên kết tiêu biểu đã hình thành như: Chuỗi sản xuất – tiêu thụ gạo của Công ty Trung An (xuất khẩu 500.000 tấn/năm); Chuỗi trái cây của Công ty Nam Phúc; Chuỗi sữa của Tập đoàn TH; Chuỗi trồng rừng lớn ở khu vực miền Trung…
TS. Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường). (Ảnh Vnbusiness)Tuy nhiên, bên cạnh kết quả tích cực, liên kết nông nghiệp của chúng ta vẫn bộc lộ 4 hạn chế lớn. Thứ nhất là tỷ lệ liên kết còn thấp – chỉ khoảng 25% HTX tham gia. Thứ hai là liên kết chưa sâu, chủ yếu dừng ở khâu mua – bán, bao tiêu sản phẩm theo mùa vụ, thiếu chia sẻ rủi ro, lợi ích và đầu tư chung. Thứ ba là thiếu cơ chế giám sát, dữ liệu và công cụ truy xuất, khiến việc kiểm soát chất lượng nông sản còn hạn chế. Thứ tư là thiếu động lực đầu tư vùng nguyên liệu, nhiều doanh nghiệp chỉ tham gia ở khâu tiêu thụ mà không đồng hành cùng nông dân trong quá trình sản xuất.
Một trong những nguyên nhân quan trọng là năng lực của HTX còn yếu, hạ tầng sản xuất – kinh doanh hạn chế, nguồn lực đầu tư cho logistics, kho bảo quản, chế biến còn thiếu.
Từ thực tế, có thể thấy chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trong nông nghiệp không chỉ là yêu cầu của thời đại mà là điều kiện tiên quyết để Việt Nam hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Để thúc đẩy chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trong nông nghiệp cần nhanh chóng hoàn thiện hành lang pháp lý về liên kết chuỗi và hệ sinh thái số; Xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung, thống nhất; Nâng cao năng lực của HTX– trung tâm của chuỗi liên kết; Tăng cường hợp tác quốc tế, ứng dụng công nghệ và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào chuyển đổi số.
“Hệ sinh thái số trong nông nghiệp không chỉ tạo nên sự minh bạch, hiệu quả trong sản xuất mà còn mở ra không gian phát triển mới, xanh hơn – thông minh hơn – bền vững hơn cho nền nông nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập”, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn khẳng định.